Lịch sử Triết học kinh viện

Triết học kinh viện không đơn thuần là triết lý hay một môn thần học mà là phương pháp giảng học, vì nó nhấn mạnh về lý luận biện chứng để mở rộng kiến thức bằng cách suy luận và giải quyết xung đột tư tưởng. Suy nghĩ kinh viện cũng được biết đến với phân tích khái niệm nghiêm ngặt và việc rút ra một cách cẩn thận các khác biệt. Trong lớp học và trong viết văn, nó thường có dạng rõ ràng của một cuộc tranh luận; một chủ đề được rút ra từ truyền thống được đề cập trong hình thức của một câu hỏi, những câu trả lời đối lập được đưa ra, một đề nghị phản lại được tranh luận và các lập luận đối ngược bị bác bỏ. Bởi vì sự nhấn mạnh vào phương pháp biện chứng nghiêm ngặt, triết học kinh viện cuối cùng đã được áp dụng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Nó vừa là phương pháp vừa là một hệ thống hướng tới việc hòa trộn thần học Kitô giáo của các vị Giáo phụ với triết học Hy Lạp của Aristotle.

Triết học kinh viện phát triển ban đầu từ các tu viện Kitô tới các đại học Âu châu.[3] Các tổ chức đầu tiên ở phương Tây được coi là trường đại học được thành lập tại Ý, Pháp, Tây Ban NhaAnh vào cuối thế kỷ 11 và 12 cho các nghiên cứu về Giáo dục các môn khai phóng, pháp luật, y học, và thần học,[2] như Schola Medica Salernitana, trường Đại học Bologna, và Đại học Paris. Khá khó để xác định ngày mà tại đó chúng đã trở thành các trường đại học thực sự. Là một chương trình, triết học kinh viện bắt đầu như là một nỗ lực hài hòa trên phần của các nhà tư tưởng Kitô giáo trung đại, để hài hòa các cơ quan khác nhau của truyền thống riêng của họ, và để hòa giải thần học Kitô giáo với triết học cổ đại, đặc biệt hơn cả là Aristotle và phái Tân Platon[4].

Early Scholasticism
High Scholasticism

Late Scholasticism
Lutheran Scholasticism

Reformed Scholasticism
Neo-Scholasticism

Thomistic Scholasticism
Analytical Scholasticism

Peter Abelard, Albertus Magnus, Duns Scotus, William xứ Ockham, Bonaventure, và nổi bật hơn cả là Thomas Aquinas với Summa Theologiae là một hợp đề đầy tham vọng kết hợp triết học Hy Lạp và giáo lý Ki-tô giáo. Vào giai đoạn Phục Hưng, các phương pháp suy diễn và tiên nghiệm của triết học kinh viện bị thay thế dần bởi lập luận quy nạp của khoa học hiện đại, trong khi cơ sở lý thuyết thần học chịu sự thách thức của chủ nghĩa nhân văn.